Chức năng nội tiết thận

Mục lục:

Anonim

Theo Thư viện Y học Trực tuyến của Merck, chức năng chính của thận là duy trì cân bằng nước và chất khoáng (chất điện giải) trong cơ thể. Thận đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của hệ thống nội tiết, tiết ra hai hormone và một enzyme đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa các tế bào hồng cầu, xương khỏe mạnh và huyết áp.

Thận thận tiết ra một hóc môn quan trọng được gọi là erythropoietin (EPO) có nhiệm vụ kích thích sản sinh ra các tế bào hồng cầu trong tủy xương. Tủy xương sau đó sản xuất và giải phóng đúng lượng tế bào hồng cầu vào trong máu để mang oxy cần thiết đến các cơ quan quan trọng. Theo Viện Quốc gia về Bệnh Tiểu đường và Tiêu hóa và Bệnh thận (NIDDK), nếu thận bị bệnh và không sản xuất đủ EPO, tủy sẽ làm cho các tế bào máu không đủ, dẫn đến thiếu máu. Khi lượng hồng cầu mang theo oxy quá thấp, các mô và cơ quan của cơ thể có thể bị tước khí oxy cần thiết để hoạt động bình thường. Điều này có thể dẫn người thiếu máu trở nên nhợt nhạt, yếu ớt và dễ mệt mỏi, và nó có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về tim.

>

Sự tiết Calcitriol

Thận có hoạt tính vitamin D gọi là calcitriol rất quan trọng cho sự phát triển và duy trì xương khỏe mạnh. Vitamin D chúng ta ăn qua thực phẩm hoặc được sản xuất trong da nhờ tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời không hoạt động. Thận chuyển vitamin D thành calcitriol, sau đó hoạt động như một hoocmon để kích thích sự hấp thu canxi trong máu do máu và xương. Theo NIDDK, những người mà thận của họ ngừng chức năng ngừng việc calcitriol. Khi điều này xảy ra, cơ thể không thể hấp thụ canxi từ thực phẩm và thay vì bắt đầu lấy nó ra khỏi xương.

thận đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp điều chỉnh huyết áp. Một trong những cách họ thực hiện điều này là bằng cách điều tiết sự bài tiết natri thừa từ cơ thể; chúng cũng kiểm soát huyết áp thông qua sự tiết ra của enzym renin. Khi huyết áp quá thấp, thận sẽ tiết ra renin vào máu, kích hoạt một loạt các phản ứng trong máu. Theo The Merck Manuals, renin gián tiếp kích thích một hoocmon khác gọi là angiotensin II gây ra các tĩnh mạch để co thắt, làm tăng huyết áp. Thất bại của thận mất khả năng theo dõi huyết áp và giải phóng renin tương ứng; do đó, nhiều người bị suy thận kết thúc với huyết áp cao.